CAO HỌC 15
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

DBSCL Thành tựu

Go down

DBSCL Thành tựu Empty DBSCL Thành tựu

Bài gửi  Admin Thu May 07, 2009 9:15 pm

Thành tựu

Thời gian qua, nuôi trồng và khai thác thủy hải sản ở vùng ĐBSCL được khẳng định là những nghề sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển và nông thôn. Nuôi thủy sản hàng hoá xuất khẩu phát triển đã tác động rất mạnh đến việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất ở vùng ĐBSCL. Tổng diện tích chuyển đổi sang NTTS ở vùng này khoảng trên 312.000 ha, bằng khoảng 83% diện tích chuyển đổi trong cả nước, trong đó từ đất trồng lúa khoảng 298.000 ha. Nhìn chung, doanh thu bình quân trên cùng đơn vị canh tác sau chuyển đổi sang NTTS tăng gấp 4-7 lần, khẳng định ưu thế cạnh tranh của kinh tế thủy sản trong vùng. Điều đáng nói là, mặc dù diện tích nuôi thủy sản ở ĐBSCL tăng nhanh, nhưng nhờ những tiến bộ trong công tác thủy lợi và canh tác nông nghiệp nên sản lượng lúa ở ĐBSCL không ngừng gia tăng, an ninh lương thực được giữ vững, sản lượng gạo xuất khẩu những năm qua không giảm.



Năm 2006, sản lượng NTTS vùng ĐBSCL đạt khoảng 1.200.000 tấn, bằng trên 70% sản lượng NTTS toàn quốc. Cùng với NTTS, hoạt động khai thác thủy sản cũng đạt được kết quả quan trọng, sản lượng khai thác không ngừng tăng. Năm 2006, sản lượng khai thác của vùng ĐBSCL đạt khoảng 850.000 tấn, bằng khoảng 40% tổng sản lượng khai thác cả nước, trong đó trên 80% khai thác từ biển. Trong 13 tỉnh ĐBSCL, có 8 tỉnh tham gia Chương trình vay vốn đóng tàu khai thác hải sản xa bờ (Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Long An, Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang). Bên cạnh sự hỗ trợ tín dụng của Nhà nước, ngư dân đã tích cực bỏ vốn tự đầu tư, tiếp tục đóng, sửa, cải hoán tàu cá và tổ chức đánh bắt hiệu quả.



Các nhà máy chế biến đã được xây dựng gắn với các vùng nguyên liệu, đa số nhà máy được xây mới và được đầu tư nâng cấp, đổi mới trang thiết bị, sản xuất các mặt hàng đáp ứng yêu cầu chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm của EU. Công nghệ mới trong chế biến đã được áp dụng nhằm sản xuất các mặt hàng chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế, gắn với việc kiểm soát chất lượng theo HACCP, đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, không có kháng sinh hoặc hóa chất cấm sử dụng. Trong số các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn EU đã có khoảng 50% doanh nghiệp ở ĐBSCL. Nhiều doanh nghiệp và doanh nhân trong vùng có những nỗ lực và rất năng động, linh hoạt trong thương mại mở rộng và tăng thị phần trên các thị trường. Nhờ đó, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2006 các địa phương trong vùng ĐBSCL đạt khoảng 2 tỷ USD, bằng 60% giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Riêng tỉnh Cà Mau đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản gần 580 triệu USD.



Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của chế biến xuất khẩu thủy sản, chế biến và tiêu thụ nội địa cũng là thế mạnh của ĐBSCL. Nơi đây chính là “vựa cá” lớn nhất cung cấp sản phẩm thủy sản cho TP. Hồ Chí Minh, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước. Bên cạnh các sản phẩm thủy sản tươi sống, các sản phẩm chế biến tiêu thụ nội địa trong vùng đã phát triển mạnh trong những năm qua. Điển hình là nước mắm Phú Quốc đã đăng ký tên gọi xuất xứ và bảo hộ bản quyền, nên đã bước vào sân chơi thương mại quốc tế. Các sản phẩm cá tra, basa đã bung mạnh trên thị trường nội địa với hơn 60 chủng loại mặt hàng hấp dẫn. Phát triển thị trường thủy sản nội địa là hướng đi đầy hứa hẹn ở ĐBSCL trong thời gian tới.



Mặc dù đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều tiềm năng và thế mạnh cho phát triển thuỷ sản, song do nhiều hạn chế và khó khăn tiềm năng đó chưa được phát huy tương xứng. Những hạn chế đó có thể thấy rõ từ việc phát triển nuôi rồng, khai hác thuỷ hải sản một cách tự phát quá nóng, thiếu đồng bộ; đầu ư cho phát riển còn thấp, chậm; cơ sở hạ tầng yếu kém.... Vì vậy đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển trên cơ sở đảm bảo tính bền vững.



Định hướng phát tri?n đến năm 2020

Trong bối cảnh vùng, tiếp tục phát triển thủy sản nhanh trên cơ sở đảm bảo tính bền vững trong chính hoạt động sản xuất thủy sản và của toàn vùng ĐBSCL. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu các ngành nghề sản suất, kinh doanh, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm thủy sản, với bảo vệ môi trường sinh thái. Bảo đảm cân bằng lợi ích giữa ba mảng phúc lợi: kinh tế, xã hội và sinh thái môi trường trong quá trình phát triển thủy sản. Cụ thể là:

* Phát triển thủy sản vùng ĐBSCL thành một ngành kinh tế sản xuất hàng hoá lớn; có năng suất, chất lượng và tạo ra các sản phẩm thủy sản có tính cạnh tranh cao thông qua ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, đặc biệt công nghệ sinh học và công nghệ sau thu hoạch. Đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm thủy sản nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thủy sản ngày càng tăng trong nước và hướng mạnh vào xuất khẩu. Tiếp tục giữ vững vị trí vùng kinh tế thủy sản trọng điểm quốc gia, khẳng định lợi thế cạnh tranh của kinh tế thủy sản trong vùng ĐBSCL. Mở rộng và ổn định thị trường hàng hoá thủy sản, duy trì một số thị trường thủy sản truyền thống.



* Phát triển thủy sản vùng ĐBSCL trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực, an toàn thực phẩm và cuộc sống cho ngư dân trong quá trình sản xuất. Phát huy bản sắc văn hoá ‘làng cá’, tiến tới xây dựng các ‘đô thị nghề cá’ và cải thiện sinh kế của người dân địa phương.



* Ở ĐBSCL có ba kiểu sinh thái đặc trưng là: vùng đất nhiễm mặn và sinh thái nhiễm mặn, vùng đất phèn và sinh thái đất phèn, vùng ngập lũ theo mùa và sinh thái ngập nước theo mùa. Cho nên, phát triển NTTS phải thích nghi với các kiểu sinh thái đặc trưng, bảo tồn rừng ngập mặn và các hệ sinh thái đất ngập nước quan trọng khác trong vùng ĐBSCL. Phát triển ổn định một hệ thống thuỷ lợi phục vụ NTTS (thuỷ ngư) ở vùng ĐBSCL, trước hết xử lý và tách riêng kênh tiêu thoát nước thải với kênh cấp nước cho các vùng NTTS tập trung. Giảm thiểu tác động của các hoạt động sản xuất thủy sản đến nguồn nước ngầm và môi trường xung quanh, đặc biệt ở bán đảo Cà Mau. Bảo vệ và phục hồi vốn rừng ngập mặn, các khu vực rừng tràm, đồng thời chú trọng phát triển nuôi sinh thái: xen vụ lúa - tôm, con tôm ôm cây lúa… để duy trì độ che phủ cho đất đai. Chú trọng phát triển nghề cá cộng đồng để tận dụng các diện tích nhỏ lẻ, phân tán và sinh thái mùa nước nổi đặc thù ở ĐBSCL.



* Quy hoạch phát triển NTTS theo 3 tuyến ở ĐBSCL phù hợp với các đối tượng, phương pháp, hệ thống sản xuất và mục đích nuôi trồng khác nhau, như: (1) Tuyến biển sát bờ (giới hạn từ bờ đến vùng biển có độ sâu 6-10 m): chủ yếu phát triển nuôi bãi triều, các khu tương đối lặng sóng có thể nuôi dàn treo và lồng bè. Đối tượng nuôi là cá, ngao, nghêu, sò huyết và hàu.... Xây dựng các khu bảo tồn nguồn lợi và các khu bảo tồn bãi giống tự nhiên, như: khu bảo tồn nghêu, các khu bảo tồn rừng ngập mặn.… Kết hợp NTTS với bảo vệ cảnh quan để phát triển du lịch sinh thái; (2) Tuyến ven biển (nuôi thuần nước lợ), nằm chuyển tiếp phía trong tuyến ven bờ vào sâu đất liền đến đường đẳng mặn 4%0 (phù hợp với phân tuyến thuỷ lợi và nông nghiệp): NTTS nước lợ như tôm, cua, các loài cá, nhuyễn thể và trồng rong câu. Tùy theo mùa và khả năng ngọt hóa theo thời gian mà kết hợp canh tác một vụ lúa, một vụ NTTS nước lợ; (3) Tuyến nội đồng (nuôi thủy sản nước ngọt): nuôi chủ yếu các loài thủy sản nước ngọt có giá trị thương phẩm cao (cá tra, basa) và các đối tượng nuôi truyền thống phục vụ thị trường tại chỗ. Có thể phát triển NTTS dọc theo triền các sông, các kênh rạch lớn, các khu ruộng trũng, nơi có khả năng cấp và tiêu nước dễ dàng cho các ao nuôi quanh năm hoặc một thời gian dài trong năm. Tuyến này cũng có một số diện tích nước ngọt ít được trao đổi, nhất là vào mùa khô như ở chân rừng tràm. Những nơi này có thể phát triển các loài cá đen thích ứng với loại môi trường và hệ thống ao nuôi ít thay nước như cá lóc, cá rô đồng, lươn, chạch, cá sặc,...



* Sắp xếp lại cơ cấu đội tàu và nghề khai thác hải sản nhằm giảm bớt cường lực khai thác, duy trì sản xuất bền vững. Cấm hẳn những loại nghề khai thác hải sản gần bờ có tính hủy diệt hoặc gây ảnh hưởng đến nguồn lợi hải sản. Phân chia vùng biển theo tuyến và phân cấp quản lý để nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức tự chủ của từng cấp quản lý theo tinh thần Nghị định 123-2006/NĐ-CP. Từng bước phục hồi môi trường sống gần bờ của các loài hải sản ở các vùng bãi ngang, vùng cửa sông, ven các đảo và các hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm san hô, thảm cỏ biển,…ưu tiên khai thác hải sản xa bờ nhằm giảm áp lực khai thác vùng biển gần bờ, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng.



* Đẩy mạnh chế biến theo cả hai phương thức: chế biến nội địa (bột cá, thức ăn, chế phẩm...) và chế biến xuất khẩu (các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu) đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và ngày càng cao của thị trường thuỷ sản. Đổi mới công nghệ và đa dạng hoá các mặt hàng chế biến thủy sản, tăng tính cạnh tranh của hàng hoá thủy sản, chủ động tạo ra các sản phẩm mới đối với thị trường thủy sản quốc tế và khu vực. Phát triển sản xuất sạch hơn trong tất cả cơ sở công nghiệp chế biến thủy sản trong vùng ĐBSCL.



Vài thập kỷ tới, thị tr­ường trong nư­ớc và thế giới có xu hư­ớng mở rộng phát triển hàng hoá thủy sản với các đối tư­ợng nuôi có giá trị cao. Đây là một cơ hội cho ngành thủy sản Việt Nam nói chung và vùng ĐBSCL - một trong số ít vùng có lợi thế đối với NTTS - nói riêng phát triển. Nắm chắc cơ hội, tập trung chỉ đạo, phát huy cao trí tuệ và huy động các nguồn lực để phát triển NTTS và khai thác thủy sản ở vùng ĐBSCL theo các định hướng chiến lược nói trên là một hướng đi đúng nhằm khai thác hiệu quả và bền vững vùng sinh thái đặc thù của đất nước, đáp ứng nguyện vọng của hàng triệu dân lao động vùng này.

Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 67
Join date : 30/04/2009

https://caohoc15ct.forum-viet.net

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết